Mấy bữa trước là ngày sinh nhật của tôi, và ngày đó là ngày nào thì tôi sẽ không nói rõ để bạn biết mà hòng gởi thiệp chúc mừng, hoặc dò tìm tử vi đoán xem tôi là người tốt xấu, cù lần như thế nào. Đã từ lâu tôi cố tình không nhớ, không nhắc đến ngày sinh nhật cho ai biết để người thân cũng như người quen khỏi bận tâm làm chi cho mệt.
Biện pháp tránh gây chú ý đó đã gần như hoàn hảo. Trong hai mươi năm làm việc ở các cơ sở chung quanh phố Bolsa này, năm nào ngày sinh nhật của tôi cũng đến và đi như mọi ngày, mặc dù có lúc tôi làm việc ở một đài phát thanh mà ngày nào các xướng ngôn viên cũng mong tìm ra ngày sinh nhật của một ai đó để mà rao “Chúc mừng, chúc mừng!” cười nói om sòm trên làn sóng, bắt mọi người phải nghe, phải biết. Các đồng nghiệp của tôi đều từng bị “Chúc mừng, chúc mừng!” trong khi tôi né được vào mỗi đầu năm.
Tính tôi hơi kỳ cục, vợ nói vậy khi nghe tôi nhắc các con đừng mua quà cáp mừng sinh nhật bố. Biết các con được bình an là món quà lớn nhất cho tôi.
Lời yêu cầu của tôi phần lớn được các người thân tôn trọng, riêng có một người không chịu nghe, mà hình như chẳng bao giờ thèm biết đến ý kiến ý cung của tôi. Người ấy là mẹ tôi. Mấy hôm trước, rời sở sau giờ làm việc, tôi ghé căn mobile home để thăm mẹ như mọi đêm trên đường về nhà. Vừa bước vào phòng khách, tôi được dàn chào bởi một bà cụ gần tám mươi tuổi cao mới tới vai tôi (tôi thuộc loại đàn ông Việt Nam khiêm nhượng về chiều cao). Bà mừng tôi với miệng chỉ còn vài cái răng (mẹ tôi đang trong giai đoạn cần nhổ hết răng để làm lại nguyên hàm răng giả), tay cầm một tờ hai chục đô-la dúi tận tay tôi.
“I remember you, your birthday,” mẹ tôi reo lên bằng tiếng Anh. Bà thích nói tiếng Anh mỗi khi vui trong lòng, có điều bà nói theo giọng của người Việt tị nạn ở Pennsylvania mà có dịp tôi sẽ kể thêm cho bạn biết. Giọng này nghe cứng đơ, nhưng không hiểu sao mẹ tôi vẫn có thể làm quen với mấy ông bà Mỹ từ hồi ở Pittsburgh cho đến tận Little Saigon này.
Không thể nhịn cười trước nét mặt hân hoan, hồn nhiên của mẹ như một em bé với mấy cái răng sún trong giờ chơi ở trường mẫu giáo, tôi vui tươi đáp lại, cầm tờ tiền giấy cất trong túi và mở vòng tay ôm mẹ.
“Tao cho tiền cho dễ tính, mày muốn mua quà gì thì tự mua lấy,” bà nói, mắt không rời thằng con tóc cũng bạc phơ, có lẽ còn nhiều tóc bạc hơn mẹ.
Tôi biết hai chục đồng của mẹ lớn lắm, vì hầu hết tiền hưu trí sau mấy chục năm làm việc của bà được dùng để trả tiền thuê đất hàng tháng cho căn mobile home, không dư được là bao nhiêu.
Nãy giờ tôi viết những chuyện tầm phào cũng vì nhân đọc được một mẩu tin sau đây mà đáng lý tôi phải kể cho bạn nghe từ đầu. Khi đọc đến đoạn chót may ra bạn hiểu tại sao tôi đã đi vòng vo, kể ba cái chuyện vớ vẩn riêng tư nói trên. Đó là mẩu tin về anh Nicholas Simmons, một thanh niên mới 20 tuổi. Mẩu tin được đăng trên nhiều nhật báo ở khắp nước Mỹ, xuất phát từ thủ đô Hoa Thịnh Đốn.
Vào đúng ngày đầu năm 2014, Nicholas bỗng biến mất từ nhà của cha mẹ ở một thị xã thuộc miền bắc của tiểu bang New York. Như bạn đã biết, vùng đông bắc bị bão tuyết, bị khí lạnh Bắc Cực bao trùm kể từ đầu năm đến nay. Thế nên sự vắng mặt của Nicholas khiến các thân nhân rất lo lắng. Gia đình họ Simmons thuộc hạng khá giả bậc trung ở thị xã Greece gần thành phố Rochester.
Nicholas rời nhà bỏ lại chiếc ví đựng tiền, thẻ căn cước, bằng lái xe, thẻ tín dụng; anh cũng để lại điện thoại và hầu hết những món đồ cá nhân khác. Điều đó khiến ông bà Paul và Michelle Simmons càng khổ tâm, không biết chuyện gì đã xảy ra trong tâm trí của con. Ở xứ Mỹ này đã có nhiều người bỗng bỏ hết mọi thứ, rời xa gia đình, bỏ xã hội, để lại một cuộc sống an toàn và chuốc vào thân một cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm để tìm con người thật của mình. Những cuộc đoạn tuyệt như vậy thường đưa đến một kết quả đau lòng, như trường hợp của anh Christopher McCandless, một thanh niên đã từ bỏ bằng cấp đại học, gia đình phú quí để lang thang từ miền đông sang miền tây nước Mỹ, cuối cùng chết cô độc trong rừng hoang ở tận miền Alaska lạnh lẽo. Dựa theo nhật ký của Christopher, một cuốn phim ra đời mang tựa đề “Into the Wild” (Về Miền Hoang Dã).
Rất may cho gia đình Simmons. Nicholas vẫn còn quanh quẩn ở đô thị, chưa biến mất trong rừng hoang. Một loạt sự kiện ngẫu nhiên đã xảy ra, đưa đến một kết quả mà người mẹ chỉ có thể nói là do phép mầu đưa đến.
Bốn ngày sau ở Hoa Thịnh Đốn, một nữ nhiếp ảnh gia của hãng thông tấn Associated Press đã cầm máy đi quanh quẩn các con đường chung quanh khu vực Tòa Bạch Ốc để săn hình nói lên tình trạng khí lạnh băng giá. Nhiếp ảnh gia này đã chụp mấy bức hình cho thấy anh Nicholas đang nằm sát một nắp cống, nơi mà hơi ấm từ những dòng nước nóng trong nhà chảy thoát ra ngoài và tỏa những làn hơi ấm áp quí giá đối với người vô gia cư. Nicholas chỉ cách tòa nhà Quốc Hội vài trăm thước.
Bức hình được hãng thông tấn AP cung cấp cho các cơ sở truyền thông khắp thế giới. Tờ USA Today đăng ngay bức hình vào sáng Chủ Nhật hôm sau, ngày 5 tháng Một. Có người thấy tấm ảnh, tin rằng nhân vật vô gia cư trong ảnh là Nicholas. Người đó đưa ảnh lên một trang Facebook mà ty cảnh sát tại thị xã Greece đã lập ra để tìm Nicholas sau khi được gia đình Simmons thông báo sự mất tích của con.
Ghi chú đăng trên nhật báo ghi nhận bà Jacquelyn Martin chụp được bức ảnh ngày thứ Bảy, cho thấy một thanh niên bảnh trai nhưng với nét mặt lờ đờ, chưa cạo râu, đang ép má sát vào khung sắt chặn trên hố cống thoát nước bên ngoài tòa nhà Ủy Ban Mậu Dịch Liên Bang. Anh Nicholas mặc áo ấm dành cho người trượt tuyết, đầu được trùm kín trong nón áo. Một tấm mền màu xám tro dày cộm được đắp lên phần dưới thân thể của Nicholas.
Theo lời kể sau này, nữ nhiếp ảnh gia Jacquelyn được hãng AP giao nhiệm vụ làm việc tại Tòa Bạch Ốc vào cuối tuần. Thế nhưng đúng thời điểm đó thì Tổng Thống Barack Obama cùng gia đình đang nghỉ lễ ở đảo nhiệt đới Hawaii. Không có sự kiện gì để bấm máy tại Bạch Cung, bà Jacquelyn xách máy đi tìm những bức ảnh ghi nhận tình trạng lạnh đông đá ở thủ đô. Đó là lý do đưa đến sự gặp gỡ giữa bà Jacquelyn và anh Nicholas tại một khu phố có những người vô gia cư tụ tập để tránh khí lạnh.
Thấy một nhóm đàn ông đứng chung quanh nắp hầm, bà đến tự giới thiệu mình và bắt đầu bấm máy. Thế rồi bà nhận thấy trong nhóm bốn người vô gia cư này có một thanh niên đang cuộn mình trong một tấm mền. Ba người kia đứng hoặc ngồi bên trên khung sắt, ngay trên đầu Nicholas.
“Tôi chú ý đến anh ta vì thấy anh quá trẻ,” bà Jacquelyn kể lại. “Thế rồi một lần nữa tôi tự giới thiệu mình với anh ta, bắt tay anh và hỏi tên. Anh chỉ nói tên là Nick.”
Sau khi chụp xong một loạt hình, bà gởi hình về hãng thông tấn và xem như mình làm xong nhiệm vụ ngày hôm đó. Qua ngày hôm sau, bà nhận được một tin nhắn của nhật báo USA Today qua mạng Twitter. Bà được biết tấm hình đã được đăng trên nhật báo USA Today và cha mẹ của Nick đã nhận ra con của họ. Họ muốn liên lạc với nhiếp ảnh gia để tìm địa điểm của đứa con. Bà Michelle Simmons tin chắc rằng thanh niên trong hình chính là đứa con thân yêu đã mất tích hơn bốn ngày.
Ngay trong ngày Chủ Nhật hôm đó, ông Paul cùng một người anh ruột của Nicholas đã mau chóng lái xe đến Hoa Thịnh Đốn. Họ chạy hầu như không ngưng nghỉ trên đoạn đường dài 375 dặm. Họ cũng liên lạc với một cặp vợ chồng quen với gia đình Simmons và sống ở Fairfax trong vùng thủ đô.
Giữa lúc ông Paul và con trai lái xe, cặp vợ chồng Cindy và Peter Gugino, cùng con gái Katie ở Fairfax đã nhận ra địa điểm mà nhiếp ảnh gia Jacquelyn từng đứng bấm máy gần góc đường Sixth và Constitution NW. Họ đến góc đường này trong lúc mưa lạnh lẫn với tuyết đang rơi xuống vào trưa Chủ Nhật.
Anh Nicholas đã không có mặt ở nắp cống, cũng không thấy đâu chung quanh khu phố. Vợ chồng Gugino nói chuyện với những người vô gia cư ở gần đó và được nghe họ nói Nicholas “đã ngủ qua đêm ở nắp cống đó.” Dựa theo sự chỉ dẫn của người lạ, vợ chồng Gugino và con gái tiếp tục đi đến những địa điểm mà người vô gia cư thường nằm ngủ. Họ vẫn không tìm ra Nicholas.
Khi trở lại nắp cống một lần nữa, họ mừng rỡ khi thấy Nicholas. Thế nhưng vợ chồng Gugino đã cẩn thận và chỉ đứng ở xa để quan sát vì thanh niên không biết họ là ai. Một hồi sau họ thấy xe cảnh sát xuất hiện. Trước đó gia đình Simmons đã liên lạc với cảnh sát thủ đô và điền đơn làm thủ tục báo tin người mất tích.
Tại địa điểm gặp Nicholas, cảnh sát xác nhận anh ta chính là nhân vật mất tích trong hồ sơ. Họ gọi xe cứu thương, thuyết phục Nicholas bước lên xe để được chở vào bệnh viện. Vào đêm hôm đó cảnh sát đã chở ông Paul và anh của Nicholas đến gặp con ở bệnh viện. Vợ chồng Gugino cũng có mặt ở phòng bệnh.
“Cậu ấy đã gặp lại cha,” bà Cindy Gugino kể. “Chúng tôi rất mừng là mình đã có góp phần vào cuộc hội ngộ này.”
Nhiếp ảnh gia Jacquelyn nói thêm rằng sự việc này đã nhắc nhở những ký giả như bà rằng bất cứ một con người nào mà họ gặp trong đời cũng đều có một câu chuyện để kể.
Bà nói, “Tôi thật sự rất vui trong lòng khi biết một bức ảnh có thể tạo được sự khác biệt trong cuộc đời của một người mà tôi không hề quen biết. Chuyện này xảy ra ngẫu nhiên quá sức tưởng tượng. Tôi không ngờ một tấm hình có thể mang lại sự đoàn tụ cho một gia đình.”
Tại thị xã Greece, một cảnh sát viên nói rằng đây quả là một sự may mắn không thể ngờ. Nếu không có bức ảnh được chụp một cách tình cờ, Nicholas có thể tiếp tục lang thang mỗi lúc một xa hơn và gia đình có thể không bao giờ được thấy lại anh như trong hàng vạn trường hợp người vô gia cư khác đang sống dật dờ trên đất Mỹ.
Cũng ở thị xã Greece, bà Michelle, 48 tuổi, mẹ của Nicholas nói, “Đây là một phép mầu. Nếu bạn không tin có sự can thiệp từ cõi thiên thì có lẽ bạn không còn hơi thở.”
Vào đêm Chủ Nhật hôm đó, khi người cha gặp lại con ở một bệnh viện cách xa nhà mấy trăm dặm, bà Michelle nói rằng bà đang quá vui mừng và mệt mỏi sau mấy ngày mất ăn mất ngủ, nên không thể kể hết những gì đã xảy ra trong gia đình bà.
Bà nói thêm câu chót với một nhật báo địa phương, “Tôi chỉ mong con sớm về nhà và tôi sẽ dành hết cuộc đời để chăm sóc nó.”
Câu nói này đã để lại trong tôi một niềm cảm xúc sâu đậm. Vốn là một người nam không mang nặng đẻ đau, từ lâu tôi vẫn luôn thắc mắc về tình thương của mẹ dành cho con bất kể mọi hoàn cảnh, cho dù bất hạnh, tuyệt vọng cách mấy chăng nữa người mẹ vẫn không bao giờ bỏ rơi con. Niềm tin nào, nguồn năng lực ở đâu, động lực gì có thể làm cho một người có thể thương con đến như vậy, thương đến quên cả đời mình?
Tôi chưa bao giờ dám nêu thắc mắc đó với mẹ tôi. Mà nếu có hỏi mẹ thì tôi chắc chắn sẽ nghe bà mắng yêu với miệng tươi cười khoe mấy cái răng sún, “Mày hỏi chi lạ vậy? Là mẹ thì phải thương con chứ sao? Tốn tiền cho con ăn học để nghe hỏi ấm ớ, ngớ ngẩn vậy à?”
Mà cũng có lẽ ngớ ngẩn thiệt phải không bạn?
Phúc Quỳnh
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.