Biết bạn thích nghe chuyện vui, tếu cho đời được nhẹ hẫng trên mây, tôi muốn cống hiến bạn mấy dòng tươi mát cho bạn cười. Mang đến niềm vui cho người khác là một hạnh phúc lớn cho chính mình. Khổ nỗi, một người viết đôi khi cũng sống một cuộc đời như của một vũ nữ, phải khoe hết những nét đẹp khêu gợi trên sân khấu, đến khi ngồi một mình trong buồng riêng đằng sau hậu trường, với phấn son nhòe nhoẹt theo những giọt lệ, nàng phải chịu từng cơn đau từ bên trong một thân thể bị hành hạ bởi sầu não, tuổi tác, đau bệnh.
Mấy ngày qua tôi muốn tránh nhưng không thể được, và cuối cùng vẫn suy ngẫm về cái chết, giống như một người sống ở cuối một con hẻm, mỗi lần bước ra đường là phải băng qua một ngôi nhà ở đầu hẻm có nuôi một con chó thích sủa. Con chó không dữ, cũng không đáng ghét, chỉ sủa theo bản năng mỗi khi thấy có người đi qua trước nhà. Lần nào đi ngang nhà cũng không thể tránh nghe nó sủa, riết rồi quen với tiếng sủa như một lời gợi nhắc về sự hiện hữu của nó. Tôi muốn quen với cái chết, xem đó là chuyện bình thường, như bạn quen xuống phố Bolsa để thưởng thức một ly cà phê, một tô phở vào mỗi sáng Chủ Nhật. Ly cà phê, tô phở rồi sẽ cạn, và ở một thời khắc, một nơi chốn nào khác, ly sẽ lại đầy, như chết với sống luôn nối tiếp nhau.
Dẫu biết cuộc sống sẽ liên tục vơi đầy như vậy, tôi vẫn không tránh được một chút ưu buồn, nuối tiếc trong lòng, kéo dài suốt mấy ngày khi nghĩ đến sự ra đi vĩnh viễn của một kiếp sống. Tiếng sủa gợi nhắc bắt đầu đúng một tuần trước, cũng một sáng Chủ Nhật tưởng chừng như êm đềm ở chốn Bolsa này.
Sáng hôm ấy, con cá “hút bụi” của chúng tôi nằm chết trong hồ kiếng trưng trong phòng khách. Con cá vằn xám dài hơn ngón tay trỏ, thuộc loại cá ăn rêu thông thường, không gì đặc sắc, miệng bành ra như ống hút để bám chặt vào mặt kiếng. Trong lần thay nước cuối cùng khoảng ba tuần trước, tôi nhận thấy nó không còn dẫy dụa khi được vớt bằng lưới như nó thường làm trong bốn năm được nuôi từ lúc còn bé như cọng rau.
Mặc dù già yếu, con cá vẫn trố mắt ngó vợ chồng tôi mỗi khi chúng tôi ngưng vài phút để ngồi ngắm cá. Nó thường chui vào hốc đá, nhìn lại chúng tôi với đôi mắt mở tròn, thỉnh thoảng chớp mắt một cái như hiểu được những ý tưởng yêu thương mà tôi dành cho nó.
Sau này tôi nghiệm ra trong vô thức tôi luôn nuôi cá để nối liền cuộc sống hiện tại với những kinh nghiệm êm đẹp nhất thời thơ ấu. Lớn lên giữa chợ tanh hôi, giữa chiến tranh nồng khét mùi máu lửa ở miền Trung Việt Nam, tôi đã có những giây phút thanh thản mỗi lần nhìn ngắm mấy con cá Hòa Lan bơi lượn trong một lọ thủy tinh chỉ lớn bằng hai bàn tay. Gian nhà bé bỏng luôn có sự sống của mấy con cá trong lọ đặt cạnh cửa sổ.
Những ngày lưu lạc ở xứ người cũng vậy, tôi cũng được bay bổng bên trên một cuộc sống ảm đạm chìm trong làn khói của những xưởng chế tạo thép nhờ mấy con cá tung tăng trong hồ kiếng dài ba gang tay. Đến ba năm trước, tôi quyết định không nuôi thêm cá để chặt bỏ thêm một mối ràng buộc những mong được nhẹ gánh trên một hành trình mới của quãng đời sắp tới. Hồ kiếng còn ba con cá khác giống được tôi chăm sóc từ đó đến nay.
Từng ngày, tôi thấy con “hút bụi” yếu dần, thường nằm yên một chỗ nhưng mắt vẫn mở to nhìn ra thế giới bên ngoài. Trong giây phút cuối cùng của sự sống, nó còn làm công việc của một con cá ăn rêu, miệng bám dính vào ống sưởi đặt trong hồ nước. Sáng Chủ Nhật hôm ấy, con “hút bụi” đã ra đi vĩnh viễn, để lại hai đứa bạn gồm một con cá váy đen màu xám và một cá vàng lớn bằng hai ngón tay cái. Cả hai con này cũng già như con ăn rêu.
Không chỉ được nối liền với một thú vui thời niên thiếu, nuôi cá cũng nuôi dưỡng sự thơ ngây của một đứa bé trong tôi. Vớt con cá lần cuối cùng ra khỏi hồ kiếng, tôi tìm một khoảng đất trong góc vườn để chôn cá. Tôi đã chôn không biết bao nhiêu con cá từng nuôi trong đời. Mỗi lần như vậy tôi lại nhớ bé gái Paulette và em trai Michel trong phim Pháp “Jeux Interdits” (Forbidden Games).
Tuy chỉ một lần được xem phim trắng đen thời 1950 ấy trong một đêm mùa đông bị bệnh ở Pittsburgh, tôi không thể nào quên hai hình ảnh để lại ấn tượng sâu đậm: cảnh hai em bé đào hố chôn những con thú bị sát hại trong một nghĩa trang bí mật do hai em tự tạo giữa lúc cuộc chiến thế giới lần thứ nhì đang thiêu đốt Âu Châu, và cảnh em gái Paulette 5 tuổi kêu tìm anh Michel trong tuyệt vọng giữa đám đông tại một ga xe lửa ở đoạn chót. Tôi từng cho rằng mình có trái tim ủy mị, dễ cảm động trước những màn kịch, ca khúc “cải lương” hoặc “sến” trong đời. Thế nhưng suy ngẫm lâu hơn, tôi biết tâm tư mình thường nghĩ đến sự chia tay vĩnh viễn. Tôi không sợ chết, chỉ thấy một chút buồn, cho dù chỉ là buồn cho một kiếp sống của một con cá bé bỏng.
Thời Đức Phật Thích Ca còn tại thế, Ngài thường dạy các tỳ kheo đến bãi tha ma để quán chiếu sự vô thường qua sự quan sát những xác chết không còn vẹn toàn như hồi còn sống. Thời nay, chỉ có người làm việc ở nhà quàn, bệnh viện mới may ra có dịp để quán chiếu như thế. Tuy vậy, thỉnh thoảng tôi cũng tự nhắc mình về kiếp người bằng cách đọc mục tang tế trên báo Mỹ. Hình chân dung xinh đẹp, khôi ngô, tươi sáng đi kèm với tiểu sử huy hoàng của người quá cố luôn nhắc cho tôi biết “cái chết đến bất ngờ, không thể nào mặc cả” như lời kinh Nhất Dạ Hiền Giả của Đức Phật qua sự diễn dịch của sư ông Nhất Hạnh. Nhờ xem báo mà tôi mới biết về sự từ biệt vĩnh viễn của ông John Tavener, một nhạc sĩ đại tài của Anh quốc.
Ông Tavener mất ngày 12 tháng 11, hai ngày sau con cá của tôi, hưởng thọ 69 tuổi, tại thị xã Child Okeford ở miền nam nước Anh. Ông qua đời vì hội chứng Marfan, một bệnh rối loạn di truyền liên quan đến chiều cao quá khổ của ông. Nhạc sĩ này cao gần đúng 2 mét, đi đứng khệnh khạng. Ông cũng bị suy tim trong nhiều năm.
Thời trẻ, mặc dù có cơ hội được nổi tiếng nhờ sự nâng đỡ của ban nhạc Beatles, ông quay lưng từ bỏ thế giới nhạc thời đại để dồn hết năng khiếu vào nhạc cổ điển với sự tìm hiểu tôn giáo, đặc biệt Chính Thống Giáo Thiên Chúa phổ biến ở Đông Âu. Từ sự tìm tòi, học hỏi đó, ông đã thành danh rực rỡ qua thể loại thanh nhạc Cantata chuyên về nhạc đạo. Những bài đại hợp xướng Cantata của ông được trình diễn trong các thánh đường, nhà hát lớn, phim ảnh. Bài “Song for Athene” mà ông soạn năm 1993 được hợp xướng trong lễ an táng Công Nương Diana năm 1997. Vài nhạc phẩm khác của ông đã trở thành bài bản được trình diễn mỗi năm trong mùa Giáng Sinh. Ông cũng để lại những ca khúc để thử thách khả năng thưởng thức của thính giả, chẳng hạn như bài hợp xướng “The Veil of the Temple” cần trình diễn trong khoảng thời gian dài bảy tiếng đồng hồ.
Điều tôi chú ý đến ông John Taverner nhiều nhất không là thanh nhạc, một lãnh vực mà kiến thức của tôi còn nông cạn, như bạn đã thấy, mà là sự chịu đựng của ông trước những cơn đau bịnh của cơ thể mà ông phải gánh chịu hầu như suốt đời. Không chỉ viết nhạc qua kiến thức tâm linh, ông còn dùng nó để thấu hiểu sự vay mượn tạm thời của thân thể. Hiểu vậy nên ông mới có thể cười trước những khổ đau trong đời sống. Ông từng kể lại một mẩu đối thoại với nụ cười rằng các bác sĩ không thể tìm ra nguyên nhân khiến ông bị đau đớn, nên họ thường nói một câu nghe rất chí lý: “Dẫu sao ông cũng rất may mắn vì còn có mặt ở đây.”
Nhạc sĩ đã dùng lăng kính tâm linh để xem xét sự đau đớn của cơ thể, “Nhìn từ một khía cạnh, khổ đau làm cho tôi ngất ngây tột cùng. Lúc nào cũng bị đau khiến tôi vô cùng yêu quí từng giây phút của sự sống. Với cơn đau luôn kề cận, tôi nhận ra đó là một phần của sự sống mà tôi phải chấp nhận để có thể vượt lên bên trên.”
Vượt lên bên trên, lời tâm sự của nhạc sĩ đưa tôi trở về với thực tại. Nàng vũ nữ tôi đã thôi ngấn lệ, sắp trở lại sân khấu với thân hình nảy lửa, hay ít ra cũng tóe tí lửa cho bà con sợ chơi. Hẹn bạn một bài viết sau, miễn bạn không chê vũ nữ này già, nhão, xệ.
Phúc Quỳnh
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.